Dàn ý và bài văn mẫu thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

0
462
Загрузка...

Đề bài: Em hãy lập dàn ý và viết bài thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

Загрузка...

*Lập dàn ý:

  • Mở bài: thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

  Giới thiệu tác giả Nguyễn Du: là đại thi hào dân tộc , là danh nhân văn hóa thế giới.

  •  Thân bài: thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

  1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du:

Cuộc đời:   tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), mất năm Canh Thìn (1820).

 + Giới thiệu về Quê hương: quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà TĨnh; quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng ông lại được sinh ra ở Thăng Long. Nhờ đó, Nguyễn Du dễ dàng tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa; Gia đình: đại quý tộc, nhiều đời làm quan to, có truyền thống làm thơ văn và say mê ca; sinh ra và lớn lên trong thời kì lịch sử đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến.

+ Cuộc đời: đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với anh trai là Nguyễn Khản. Gia đình tan tác, bản thân ông cũng đã từng lưu lạc “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những cơ cực, vất vả đó đã hun đúc cho ông vốn sống quý giá, và sự am hiểu sâu sắc vốn văn hóa dân gian;Nguyễn Du làm quan dưới hai triều Lê và Nguyễn. Ông là vị quan thanh liêm, được nhân dân tin yêu, quý trọng.   Sự nghiệp văn học đồ sộ với những kiệt tác ở nhiều thể loại:

2. Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du: thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

+ Nội dung:   Thơ văn Nguyễn Du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc đời cơ cực của ông nói riêng, và xã hội đen tối, bất công nói chung.   Tác phẩm của Nguyễn Du chứa chan tinh thần nhân đạo – một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, luôn hướng tới đồng cảm, bênh vực, ngợi ca và đòi quyền sống cho con người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh.

+ Nghệ thuật:   Về thể loại: Nguyễn Du đã đưa hai thể thơ của truyền thống dân tộc đạt đến trình độ điêu luyện và mẫu mực cổ điển. Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, với điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc.

Về ngôn ngữ: Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, tinh tế và giàu có.   Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn, thúc đẩy tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.   b. Giới thiệu về “Truyện Kiều”   Tên gọi: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột).   Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát.   Nguồn gốc: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” – tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.   Thể loại: truyện Nôm bác học.

3. Tóm tắt:   Giá trị tư tưởng:   + Thể hiện khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

 + Là tiếng kêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến.

 + Là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Nguyễn Du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.

 + Là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con người mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, trái tim chan chứa tình yêu thương con người.   Giá trị nghệ thuật:   + Nghệ thuật xây dựng nhân vật

 + Nghệ thuật tự sự mới mẻ; thể loại ;Ngôn ngữ trong sáng, điêu luyện, giàu sức gợi tả gợi cảm; ẩn dụ, điển cố,…Giọng điệu cảm thương rất phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.

  • Kết bài : thuyết minh về tác giả Nguyễn Du:

 Khẳng định tấm lòng tài năng của Nguyễn Du và sức sống bất diệt của “Truyện Kiều”

*Bài làm:

Nguyễn Du được mệnh danh là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa của thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có con mắt nhìn thấu “sáu cõi” và tấm lòng “nghĩ suốt ngàn đời”.

        Nguyễn Du hay còn có tên gọi Tố Như với tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ât Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới thời Lê, Trịnh. Cha ông là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc

     Khi thuyết minh về tác giả Nguyễn Du không ai là không nhớ đến vùng quê hương ông, vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng về văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng tâm hồn thiên tài Nguyễn Du.

       Thời thơ ấu, Nguyễn Du được sống trong nhung lụa. Khi lên 10 tuổi ông lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu vấp phải những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: Ông phải sống nhờ Nguyễn Khản người anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh, một thời gian sau thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà ông phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ ( năm1789) Nguyễn Du tạm lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, ông trải qua một thời gian dài sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

       Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh của kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” của xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên một thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại.

       Miễn cưỡng trước lời mời của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống một cuộc sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

       Tư tưởng của Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn khó giải thích: ông trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, nhưng bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

       Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du, ta không thể bỏ qua ba tập thơ chữ Hán nổi tiếng của ông là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, với tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính “những điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

        Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả mọi vang động của đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực thể hiện trong tác phẩm Đêm thu; Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…. Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bọ “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực đối lập: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bối cảnh đời nhà Minh ở Trung Quốc nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

       Sáng tác của Nguyễn Du chất chứa tư tưởng nhân đạo, trên hết là sự quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng trong suốt những câu thơ của Truyện Kiều chủ yếu vẫn là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ trong thời đại này.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

       Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều mang một nguồn cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sờ kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.

        Những vần thơ của ông không chỉ xót thương mà còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng của tình yêu, hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của ông đã vượt qua một số ràng buộc phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đã mang đến cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

        Nguyễn Du đã có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.Những tác phẩm viết bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát trong Truyện Kiều và song thất lục bát trong Văn tế thập loại chúng sinh. Với Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Khi thuyết minh về Nguyễn Du người ta không quên nhắc đến sự đóng góp rất lớn, rất quan trọng của ông cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: số từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, lối ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều cùa Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Từ quê hương, xã hội, gia đình, cuộc đời, năng khiếu bẩm sinh, đã tạo cho Nguyễn Du có trái tim yêu thương vĩ đại, một thiên tài văn chương với sự nghiệp văn học có giá trị lớn. Ông là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới, đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc. Và khi thuyết minh về Nguyễn Du chúng ta không thể quên câu thơ như chất chứa bao tâm sự của ông:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.

 

Loading...

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here