Phân tích giá trị nhân đạo trong Chiếc thuyền ngoài xa

0
405
Загрузка...
Загрузка...

Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với những nỗi đau của con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Tác giả Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nơi đây bao tâm tư chất chứa trong lòng về thân phận con người. Đặc biệt là thân phận người phụ nữ.

Đề bài: Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

 I. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

“Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới sau 1975. Tác phẩm rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai;  Tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài: Phân tích một số ý nổi bật về giá trị nhân đạo của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

  1. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh về chụp bức tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung.
  2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện ở:
  3. Sự đồng cảm của nhà văn đối với thân phận người lao động sau thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc
  4. Là việc ông lên án phê phán hành động vũ phu, thô bạo của người chồng đối xử với vợ, con trong tác phẩm
  5. Là việc không những chỉ khẳng định mà ông còn ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, tiêu biểu là hình ảnh người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng
  6. Tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề : cần đưa ra giải pháp cho việc giải phóng con người khỏi những bi kịch của gia đình và cuộc sống, con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là ý tưởng hoặc lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tế, đồng thời cần thu hẹp khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống.

III. Kết luận: Tóm lại giá trị nhân đạo trong chiếc thuyền ngoài xa.

Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, băn khoăn , trăn trở của Nguyễn Minh Châu về đời sống của con người trong thời kỳ này. Tác phẩm còn thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai : Quan niệm văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người…

Bài văn mẫu Phân tích giá trị nhân đạo trong Chiếc thuyền ngoài xa 

Theo quan điểm của Nguyễn Văn Siêu một tác phẩm văn chương chân chính phải gắn bó chặt chẽ với đời sống con người, có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho “người gần người hơn”. Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn luôn trăn trở về cuộc sống nhân dân và thiên chức của người cầm bút. Chiếc thuyền ngoài xa là một sáng tác tiêu biểu của ông không chỉ bởi đề tài sáng tác mới mẻ mà còn bởi giá trị nhân đạo sâu sắc của nó.

Văn chương thời kì đổi mới giai đoạn sau năm 1975 tiếp nhận khá nhiều tác phẩm hay và những đề tài mới mẻ. Chiến tranh kết thúc, nhiều vấn đề nhân sinh đạo đức phải được nhìn nhận lại, văn chương cũng phải đổi mới đề tài sáng tác. Nếu trước năm 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu thiên hướng sử thi, lãng mạn trong đề tài người lính thì sau năm 1975, ông lại chuyển hướng vào những vấn đề đời tư thế sự, khám phá vẻ đẹp con người đằng sau cuộc sống lấm láp, đời thường, trong hành trình mưu sinh vất vả. Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác này của Nguyễn Minh Châu. Hiện thực cuộc sống người dân sau chiến tranh đã được phác họa rõ nét. Ẩn sâu trong đó là cả một tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu – nhà văn được tôn vinh là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” người đã khám phá con người trong tầng sâu lịch sử để tìm kiếm “những hạt ngọc” còn “ẩn giấu” đằng sau những dáng vẻ lấm láp đời thường kia.

Trước hết, giá trị nhân đạo của truyện được thể hiện ở niềm xót thương, cảm thông của nhà văn với số phận con người dập dềnh, lênh đênh trên đau thương của đại dương của cuộc sống, cuộc sống lam lũ vất vả của gia đình thuyền chài. Chiếc thuyền là không gian sinh hoạt của đôi vợ chồng và một đàn con thơ. Ước mơ lớn nhất của người vợ là có một chiếc thuyền rộng hơn và được nhìn thấy đàn con được ăn no. Trong lúc hoàn cảnh túng quẫn, người chồng thay đổi tâm tính trở nên tàn bạo, vũ phu. Người vợ vì thương con, bất lực nên đã cam chịu đòn chồng và còn xin lên bờ để đánh. Người đàn bà làng chài trong truyện chính là hiện thân cho những gì là đau khổ, bất hạnh. Chị chính là hiện thân cho biết bao số phận của những người phụ nữ miền biển lênh đênh, nhọc nhằn luôn khao khát những hạnh phúc đời thường mà ngoài tầm tay với. Chị sống lam lũ, khó nhọc cùng gia đình trên chiếc thuyền chật hẹp lại thường xuyên phải chịu đòn chồng, không phải dăm bữa nửa tháng mà là “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Nguyễn Minh Châu đã dùng những chi tiết điển hình để phác họa chân dung người đàn bà: chạc tuổi 40, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi vì thức đêm kéo lưới, chiếc áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng… Chị mang những nét điển hình của người phụ nữ vùng biển lam lũ, khổ cực. Trong hoàn cảnh đói nghèo khi chưa có những giải pháp thiết thực để giải cứu cuộc đời chị thì cảnh chịu đòn chồng là cách duy nhất chị có thể làm để đến khi được luật pháp và cả thiện chí giúp đỡ, chị vẫn nhất định không chịu từ bỏ lão chồng vũ phu. Cuộc sống của chị chứa đựng nhiều đau khổ mà người đọc chứng kiến không khỏi xót xa. Lão chồng trong truyện cũng là hiện thân cho những kiếp người nghèo khổ. Trong con mắt của người đàn bà, lão là nạn nhân của nghèo đói, chỉ vì khó khăn, túng quẫn mà thay đổi tính nết. Cái độc dữ của hắn đã in hằn trên dáng hình thô kệch: chân đi hình chữ bát, đôi mắt nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà… và cả những hành động lão “dành” cho người vợ đáng thương trong những trận đòn: “lão rút trong người ra chiếc thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, vụt tới tấp vào người đàn bà”… Câu nói cửa miệng của lão với người đàn bà: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ…Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ…” đã cho thấy bản tính vũ phu của lão chồng. Nhưng ngẫm kĩ, ta thấy hắn đáng thương hơn đáng trách vì theo người đàn bà ấy kể: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi…” ta thấy được rằng lão chồng cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Cuộc sống có nhiều mảnh đời bất hạnh, có nhiều góc khuất mà người đọc phải suy ngẫm để rồi ngậm ngùi, cảm thương, xa xót…

Giá trị nhân đạo của truyện ngắn không chỉ được thể hiện ở lòng xót thương, cảm thông sâu kín của nhà văn mà còn ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã kịch liệt lên án nạn bạo lực gia đình đã gây ra bao nhiêu đau khổ mà nạn nhân chính là phụ nữ và những tâm hồn trẻ thơ. Thói vũ phu của người chồng cũng do hoàn cảnh xô đẩy. Thế nhưng chứng kiến cảnh mẹ mình bị cha đánh đập, thằng Phác đã có dấu hiệu của một đứa trể thiếu vắng tình yêu thương. Nó thương mẹ nó và căm giận cha nó. Nó đã từng tuyên bố “Chừng nào nó còn ở trên biển thì mẹ nó không bị đánh”. Nó giống bố nó ở tính nết cục cằn, thô lỗ. Bởi vậy, nó nhất quyết chống lại hành động của cha. Chứng kiến mẹ bị đánh, nó xông ra ngăn cản để rồi nhận lấy hai cái tát của cha làm nó ngã dúi dụi xuống cát. Ba hôm sau nó lại định dùng dao găm chống lại người cha và cứu lấy người mẹ đáng thương của nó. Tâm hồn thằng bé Phác đã trở nên bị vấy bẩn bởi phải chứng kiến cảnh tượng không đáng có. Tâm hồn Phác sẽ không thể lành lặn. Tuổi thơ của em đang bị chà đạp bởi cái xấu, cái ác.

Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu còn phê phán lòng tốt hời hợt, cách hành động thiếu thiết thực của luật pháp vào đời sống con người. Dù Phùng và Đẩu có thiện chí giúp đỡ người đàn bà nhưng họ không hiểu thấu, hiểu sâu hoàn cảnh và bi kịch cuộc đời của người đàn bà kia. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn phát biểu: luật pháp và lòng tốt là cần thiết nhưng luật pháp phải đi sâu vào cuộc sống con người, phải vì con người. Những người cầm cân nảy mực phải thấu hiểu cuộc sống nhân dân thì cuộc sống của những người dân vất vả kia mới có thể khấm khá hơn được.

Điều đặc biệt làm nên giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa khiến cho tác phẩm có thể phát sáng mãi là ở chỗ nhà văn biết phát hiện, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn con người đằng sau cuộc sống gian khổ, nghèo khó. Phẩm chất của người đàn bà hàng chài trong tác phẩm chính là vẻ đẹp khuất lấp, là điểm sáng rực rỡ của truyện ngắn mà Nguyễn Minh Châu gọi đó là “hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Tình yêu thương con hết mực, sức chịu đựng tuyệt vời chính là những vẻ đẹp dễ thấy ở người đàn bà. Câu nói “đưa tôi lên bờ mà đánh” đã thể hiện được tình yêu thương đó. Người đàn bà không muốn con mình nhìn thấy cảnh bạo lực tàn ác. Tiếng gọi “Phác, con ơi!” cùng hành động ôm chầm lấy con đã chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến chị dành cho đứa con tội nghiệp. Rồi hành động “chắp tay vái lấy vái để” thể hiện được sự hối lỗi, ăn năn khi nỡ để con nhìn thấy mình bị đánh. Điều dễ thấy ở người đàn bà chính là đức hi sinh, lòng vị tha, bao dung của một người vợ, người mẹ. Chị thấu hiểu lão chồng mình, thấu hiểu rằng lão chỉ là nạn nhân. Cách nhìn của chị về lão khác hẳn với Phùng, Đẩu và cả thằng Phác. Trong đau khổ chị vẫn chắt chiu những hạnh phúc đời thường, lấy đó làm điểm tựa để sống vững hơn. Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Đằng sau cái vẻ lấm láp, lam lũ của người đàn bà chính là sự hiểu đời, hiểu người sâu sắc. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã cho thấy rõ điều đó. Từ thái độ rón rén, sợ sệt ban đầu, chị trở nên sắc sảo đưa ra những lí do chị không thể bỏ gã chồng vũ phu, độc ác. Chị cần hắn để chèo chống con thuyền trong phong ba bão táp, để cùng nhau nuôi đặng một sắp con. Lí lẽ của chị đưa ra thật sắc sảo, làm nên những bước ngoặt trong nhận thức của cả Phùng và Đẩu, buộc người nghệ sĩ và vị chánh án phải nhìn cuộc sống ở góc độ đa chiều: “có gì vỡ ra trong đầu của vị boa công phố biển”, còn Phùng thì nhận thấy “căn phòng lộng gió của Đẩu như bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Từ đó nhận ra người đàn bà ấy không cam chịu đau đớn về thể xác và tinh thần một cách ngờ nghệch mà chị rất hiểu đời, hiểu người sâu sắc hơn hai vị trí thức. Người đàn bà là hiện thân cho tình yêu thương, đức hi sinh tuyệt vời … mà Nguyễn Minh Châu hết sức trân trọng.

Đọc truyện ngắn này ta càng thấm thía hơn cảnh ngộ của chị cũng là cảnh ngộ của bao phụ nữ miền biển cũng là để yêu thêm, trân trọng thêm những vẻ đẹp lấm láp, đời thường nhưng hết mực thiêng liêng. Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn nâng truyện ngắn này lên một tầm cao mới khi tác giả đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Phát hiện của Phùng về chiếc thuyền ngư phủ trong một buổi sáng mờ sương đang dần tiến vào bờ là biểu tượng cho cái đẹp toàn bích của ngoại cảnh. Khung cảnh với mọi đường nét từ màu sắc đến ánh sáng đều đẹp, một vẻ đẹp toàn thiện làm dấy lên những cảm xúc thẩm mĩ trong lòng người nghệ sĩ. Anh cảm thấy tâm hồn mình trở nên trong trẻo, tinh khôi, được gột rửa, được thăng hoa. Anh thấm thía “cái đẹp chính là đạo đức” và cái đẹp thực sự làm thanh lọc tâm hồn con người. Tuy nhiên, trong lúc cảm xúc đang thăng hoa, một cảnh tượng đầy nghịch lí đã diễn ra: khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ cảnh người đàn bà đi trước, người đàn ông theo sau, họ vượt qua vùng phá nước ngập đến đầu gối, đến bãi xe tăng hỏng, người đàn ông rút trong mình chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, vụt tới tấp vào người đàn bà. Cảnh tượng diễn ra chóng vánh khiến Phùng không khỏi ngỡ ngàng “mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”.  Chỉ vài ngày sau cảnh tương tự đã diễn ra và có phần kinh khủng hơn, đứa chị tước đoạt con dao găm đứa em dùng làm vũ khí chống lại cha. Không thể chịu đựng được, Phùng xông ra và bị người đàn ông đánh bị thương. Phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng giống như cảnh tượng éo le của cuộc sống. Mới mấy phút trước anh thấm thía cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà giờ đây – ngay trong tích tắc, chẳng còn cái đẹp, chẳng còn đạo đức, chẳng còn là chân lí của sự toàn thiện toàn mĩ nữa. Từ đó Nguyễn Minh Châu muốn nói rằng cuộc sống luôn luôn tồn tại những nghịch lí: đẹp – xấu; thiện – ác; ánh sáng – bóng tối; cao cả – thấp hèn…hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải lúc nào cũng giống nhau cho nên cần phải có cái nhìn đa chiều để phát hiện bản chất thực sự đằng sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

Nguyền Minh Châu cũng đặt ra quan niệm về thiên chức của người cầm bút: nhà văn không có quyền nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, cần phải có cái nhìn đa chiều, phát hiện sự thực đằng sau màu hồng phơn phớt của ánh ban mai kia. Nghệ thuật phải luôn vì con người và cuộc đời. Có như vậy một tác phẩm mới có giá trị vĩnh hằng. Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Tính cách đầy mâu thuẫn của người đàn bà hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hóa ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này. Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư, những sót. Vì vậy nên tư tưởng hướng nhân đạo của ông đã nghiêng về phía những thân phận bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền – những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ như Liên trong Bến quê, Thai trong Cỏ lau … hay người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này.

Gấp lại trang truyện cuối cùng của “Chiếc thuyền ngoài xa”, người đọc vẫn không thôi day dứt, ám ảnh về một câu chuyện buồn, về những thân phận, những kiếp người khổ đau trong xã hội Việt Nam thời hậu chiến đồng thời càng thêm yêu, thêm trân trọng tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Minh Châu. Ta càng thêm thấm thía hơn về giá trị vĩnh hằng và chân chính của một tác phẩm nghệ thuật đúng như Nam Cao trong Trăng sáng từng phát biểu “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”

 

Loading...

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here