Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

0
461
Загрузка...

Đề bài: Em hãy nêu cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.

  • Lập dàn ý:
  1. Mở bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác :

Загрузка...

– Tâm tư tình cảm của nhân dân Việt Nam dành cho vị chủ tịch vĩ đại Hồ Chí Minh của một số nhà thơ nổi tiếng…

– Giới thiệu về tình cảm đó trong bài thơ Viếng Lăng Bác

  1. Thân bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác :

– Khổ thơ thứ nhất: thể hiện cái bỡ ngỡ của nhà thơ khi nhìn quang cảnh xung quanh lăng Bác: từ màn sương đến hàng tre…

– Cảm xúc xúc động khi lần đầu được đến thăm Bác như vỡ òa.

– Xúc động trước hàng tre mà chỉ những con người đã trải qua vào sinh ra tử mới có thể để ý để nhận ra.

– Hai khổ thơ giữa: là sự bàng hoàng, chiêm ngưỡng

– Sự so sánh đối xứng giữa thiên nhiên và con người: cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên – cái vĩnh cửu của “măt trời trong lăng”

– Khổ thơ cuối là cảm xúc không muốn rời xa, là ước nguyện được kề cạnh bên Người.

  1. Kết bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác :

– Nhắc lại cảm nhận về bài thơ: Cảm xúc đọng lại trong lòng người đọc, một thứ tình cảm chất chứa, không tả thành lời.

Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

Tình cảm của nhân dân với Chủ tịch Hồ Chí Minh là một thứ tình cảm đặc biệt mà bao nhiêu lời văn, lời thơ không thể hiện hết. Riêng, trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tố Hữu, Minh Huệ,… và lần này thì ở Viễn Phương. Lời thơ của Viễn Phương có một phong cách độc đáo vừa giàu chất tâm trạng, vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực, vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng… cung bậc tình cảm khác nhau, pha trộn vào nhau. Sự đa dạng này phản ánh tính phong phú về đối tượng được tái hiện ở trong từng lời thơ của Viễn Phương. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên một cuộc viếng thăm lăng bác, cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn.Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình tượng vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Qua cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác chúng ta thấy rõ điều đó.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

Ngay từ khổ đầu của bài thơ người đọc đã có cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ, vừa lạ, vừa quen: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ không thế hiện ý tứ gì nhiều, nhưng khi đọc lên lại có cảm giác rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất cha ông xưa đi mở cõi, trong thời chiến tranh là mảnh đất “đi trước về sau” chịu muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ cứu nước, miền Nam như một bức thành đồng, bất khuất, kiên cường giữa mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Hơn một nửa thế kỉ chiến đấu và hi sinh vì một mục tiêu duy nhất : là dành độc lập cho đất nước, Nam Bắc xum họp một nhà. Khát khao ấy là gì, nếu không phải là hướng về đất Bắc, nơi trái tim của cả nước. Vì vậy, khi đã đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ – Một đứa con ở phương xa không tránh khỏi ngỡ ngàng như bước vào một giấc mơ tưởng chừng không có thực. Câu thơ thể hiện sự vui mừng khôn siết, lại vừa thật xót xa. Một thứ cảm xúc như bị kìm nén bỗng oà ra nức nở. Hai mảnh đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng một cuộc hành hương. Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre đằng ngà quen thuộc đến nao lòng. Một chữ “đã” trong câu “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. “Đã” là cái cử chỉ thân yêu, quen thuộc, một hành động “tay bắt mặt mừng” dù được thực hiện bằng một thứ tiếng nói vô ngôn.

Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà thốt lên:

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

 Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mở ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chỉ là một hình ảnh bình thường mà ta có thể bắt gặp ở kì làng quê nào của Việt Nam. Nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào màu xanh đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng dứng của bốn nghìn năm dựng nước: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Sự bển bỉ, dẻo dai, vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc Việt Nam mới có. Không khí của bài thơ được tạo ra từ một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến đến tận đáy lòng. Phải là những con người bất khuất, trung kiên đã từng vào sống ra chết như thế nào trong cuộc sinh tử  dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm không bao giờ để ý tới.

Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác còn được thể hiện rõ nét ở hai khổ thơ tiếp theo – phần chính của bài là sự bàng hoàng, chiêm ngưỡng : Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại nhưng Người sống một cách giản dị đến không ngờ. Sự vĩ đại của Người, có thể so sánh với trăng sao. Nhưng cái ánh sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho sự sống muôn loài mà phải là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên xuất hiện một cách bất ngờ, sự xuất hiện rất kịp thời và phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Phép đối xứng được sử dụng trong văn thơ dường như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, phép đối xứng ấy lại được sử dụng một cách có hiệu quả. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc Việt Nam cũng có một mặt trời riêng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại không có cách nào có thể nói hết thành lời?. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau : cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên là im lặng, vô hồn, còn cái vĩnh cửu của “măt trời trong lăng” thuộc về con người, thuộc về sự sống. Giữa những con người này, sự sống này, một chân lí đang được chứng minh : sự trường tồn của một cá thể trong cái hữu hạn nhân sinh là “bảy mươi chín mùa xuân” ngắn ngủi.

Khổ thơ nói về “mặt trời trong lăng”, câu thơ có ý nghĩa triết học sâu xa : Những hào kiệt, anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí vể sự bất tử của linh hồn. Bảy mươi chín tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “bảy mươi chín mùa xuân” và cuộc đời quanh Người, cũng là những tràng hoa. Nghĩa hẹp và nghĩa rộng của hình tượng thơ cứ hồn nhiên lan toả bởi hương vị đầm ấm, ngọt ngào nhằm tôn vinh một con người mà giờ đây đã trở thành “tất cả”. Bác là tất cả, nhưng Bác cũng là một con người bình thường như tất cả chúng ta:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trâng sáng dịu hiền”.

Gam màu của mạch thơ từ chói lọi, rực rỡ ở khổ thơ trên đã trở nên dịu dàng mềm mại ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên, nhất là với trăng thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với Người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ đến bao nhiêu câu thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng trong thơ Hồ Chí Minh :

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

 Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Nhưng ngay sau hình ảnh về trăng đó, một ý nghĩ cảm thương bỗng xuất hiện :

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim !”

 Ở đây tồn tại một nghịch lí: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, với nhân dân ta vốn là vĩ đại. Nhưng thực tế Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là một con người bình thường, cũng phải trải qua Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Cảm giác “nghe nhói ở trong tim” của Viễn Phương là một cảm giác rất thực với tư cách là con người với con người, cũng bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Và chính vì là một con người bình thường như bao người dân đất Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng trở nên vĩ đại hơn.

 Qua cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác, chúng ta thấy rõ ước nguyện được kề cạnh bên Bác của nhà thơ. Điều đó thể hiện rõ nét hơn ở khổ thơ cuối:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

 Đến lúc phải xa Bác để trở về quê hương là nước mắt đã trực trào ra, tràn ngập hàng mi. Nhà thơ có một ước nguyện muốn được hóa thân thành những gì thân thuộc nhất để hàng ngày được kề cạnh bên Người, dâng lên người những gì tinh túy nhất của cuộc đời. Hàng tre đã trở thành một biểu trưng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành “cây tre trung hiếu”. Muốn làm con chim để hàng ngay dâng lên bác những khúc nhạc hay nhất. Muốn làm đoá hoa  sen để toả hương thơm ngát đâu đây. Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghẹn ngào không thể nói nên lời. Từ một góc độ nào đó ta thấy cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường, nhỏ bé biết chừng nào? Tác giả chỉ ước mình là những thứ nhỏ bé, giản đơn:  Một giọng chim ca, một đoá hoa lặng lẽ toả hương nghĩa là giống như lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời, Người rất thích hòa mình cùng thiên nhiên, cùng chim chóc, muôn hoa. Sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của nhà thơ một lần nữa nhằm tôn vinh một con người mà linh hồn như còn phảng phất nơi đây trong sương, trong nắng. Đồng thời nó cũng làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm tiếc thương và kính yêu vô vàn.

Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác cho người đọc thấy ngay một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.Bài thơ lắng đọng một thứ tình cảm chất chứa, nghẹn ngào của một người con phương xa được một lần về thăm Bác.Chứa đựng trong đó là một niềm tiếc thương vô hạn trong lòng người dân Việt Nam vị chủ tịch vĩ đại – Chủ tịch Hồ Chí Minh

Loading...

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here