Cảm nhận của em về hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ”

1
4460
Загрузка...

Đề bài: Nêu cảm nhận của em về hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ” của nhà thơ Tú Xương.

  • Bài số 1: Cảm nhận của em về hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ”

Загрузка...

Nói đến nhà thơ Tú Xương, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm  “Thương vợ”. Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được xem là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của Tú Xương đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ, để ông được học hành, thi cử như vậy. Quan trọng hơn qua hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, người ta thấy hiện lên một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất tốt đẹp điển hình.

Bà Tú có tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân từ gia đình dòng dõi nho gia. Bà nhẫn nại, cam chịu phận làm người vợ thảo hiền, tảo tần sớm hôm nuôi chồng, nuôi con, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương – Một trí thức không gặp thời, long đong, lận đận trên con đường sự nghiệp.

Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong các tác phẩm thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về đề tài người vợ thường mang nhiều âm điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, có khi chỉ là lời bông đùa hóm hỉnh, hoặc cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả các tác phẩm vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành từ phía một người chồng trước sự hi sinh của một người vợ.

Khi nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến một không gian gia đình, mà ở đó người vợ có vai trò trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của người chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào cái thời buổi Tây, Tàu lẫn lộn, nhốn nháo, không còn đâu cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ” như ngày xưa, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời, cũng phải dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua để mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu của gia đình:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian của công việc. “Quanh năm” không chỉ là độ dài có thời lượng mà còn gợi ra cho chúng ta một cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó cho thấy cuộc mưu sinh vất vả này không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực – là phần đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh và chông chênh.

Bà Tú phải hàng ngày bươn chải với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ “nuôi đủ”, nó thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm ý sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một trong những gánh nặng của vợ.

Câu ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Nhà thơ đã vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo từ đó. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả đã thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ hơn số kiếp lận đận của bà Tú. Nói về cấu trúc cú pháp của câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm, nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh của bà thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hàng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.

Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương, chịu khó, mà hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người với bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của đời mình.

Hóa thân vào nhân vật người vợ, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước hoàn cảnh gia đình. Khi đọc bài thơ hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Những câu thơ như lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng được nhấn mạnh và nổi bật hơn.

Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần một phần nào, thể hiện ở hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa của nhà thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

“Thói đời” ở đây được nhà thơ nói đến phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi những người phụ nữ như bà Tú phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi lòng dằn vặt, thái độ chân thành, tự trách mình của nhà thơ, đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa trong xã hội và ngay cả trong chính gia đình của mình.

Có thể nói hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, được Tú Xương khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, sụ cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.

  • Bài số 2: Cảm nhận của em về hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ”

Tác giả Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thành công trên con đường hoa cử lại chỉ đạt đến bậc Tú tài. Về sự nghiệp sáng tác, ông có một gia tài “Thơ” gồm trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm “Thương vợ” của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại và đó cũng là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với người vợ của mình.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề – thực – luận – kết. Hình ảnh của bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” dưới cái nhìn của ông Tú ở câu mở đầu bài thơ thể hiện rất rõ cái chông chênh, nguy hiểm trong nghề buôn bán của bà:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Mặc dù công việc của bà Tú là buôn bán nhưng việc buôn bán đó lại không diễn ra ở một khu chợ bình thường mà lại là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm việc này không có định lượng mà là quanh năm, ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp đi lặp lại, khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi, không kể khó khăn của thời tiết cái giá rét của mùa đông hay cái nóng bức của mùa hè. Khi nghe đến câu thứ hai, người đọc phần nào cảm nhận được phong cách viết thơ hóm hỉnh của Tú Xương. Dùng lời thơ của mình, ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi “năm con” mà còn gánh thêm cả người chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông tự cho mình là một “gánh” và ‘năm con’ là một “gánh” hai gánh đó đè nặng trên vai bà Tú và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng cuối câu, có vẻ như ông đang cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống như các con mình.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “thân cò”, một hình ảnh hay được dùng để ví von về số phận người phụ nữ Việt trong thời kì phong kiến, họ có một số phận vô cùng cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đặt từ “lặn lội” đứng trước chủ thể “thân cò” kết hợp với cụm từ “quãng vắng”, có một sự đối lập ở hai câu ba và câu bốn giữa “lặn lội” và “eo sèo”; “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” cho thấy nỗi vất vả một thân, một mình của bà Tú . Một mình bà vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo cuộc sống vừa đủ cho chồng, cho các con lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ nói lên cuộc sống bấp bênh, vất vả của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ đã thể hiện không chỉ sự kính nể mà còn có phần thán phục đối với về hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ”, một hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé. Từ đó ông tiếp tục cực tả nỗi vất vả, đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, không hoàn thành trọng trách làm chồng, làm cha mà còn làm khổ vợ con.

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như “một duyên hai nợ”,  “năm nắng mười mưa” là những câu chữ nói nên số phận cực khổ của một con người. Thành ngữ ở câu năm muốn nói đến “duyên” chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì quá nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ ẩn dụ cho nỗi vất vả, nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối “năm nắng mười mưa” với “dám quản công” ẩn chứa một sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh bà Tú không chỉ vất vả, đảm đang, nhẫn nại mà còn hi sinh một cách âm thầm, lặng lẽ. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ” đã khắc họa thành công Chân dung bà Tú là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đến đây không chỉ còn là thương xót, mà còn cả một sự thương cảm thấm thía. Ở những câu thơ cuối là hình ảnh của chính nhà thơ qua lời trần thuật về bà Tú.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Hai câu cuối Tế Xương đã tự “chửi” thói đời sinh ra loại người như ông. Ông muốn ám chỉ cả những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là người chồng nhưng lại chẳng gánh vác được gia đình mà ngược lại còn làm gánh nặng thêm cho vợ con.

Mặc dù rất yêu thương vợ nhưng lại không thể đỡ đần, lo toan giúp vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc, vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, khiến bà Tú phải chịu nhiều vất vả, gian truân trong cuộc đời. Một niềm hạnh phúc duy nhất khi bà còn sống là đã được đi vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của một người chồng. Đây là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ” đã lột tả rõ một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.

 

Loading...

1 COMMENT

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here